1.[z-qhx] (H) [qhx] (H) [xhds] (H) [stls] (H) [tacs] (H) [db] (H) [gfv] (H) [news] (H) [TdDcNq] [H] - 2.DOWNLOAD TaiLieu - 3. VUOT TUONG LUA - 4.[Chu Viet] - 5.[Audio] 6.[SuThat] 7.[Thu doan cs d/v Ton giao]

jeudi 12 avril 2007

Ý thức hệ của chánh sách đổi mới

VIỆT NAM CẦN ĐỔI MỚI THẬT SỰ
(LÊN MẠNG Thứ ba 31, Tháng Năm 2005)

ĐÔNG Á XUẤT BẢN

VÕ NHÂN TRÍ
(VNN)


CHƯƠNG I: Ý thức hệ của chánh sách đổi mới
(Tiếp theo)

2. Khía cạnh kinh tế của "tư tưởng Hồ Chí Minh"

Về vấn đề này thì chúng ta cần trở lại chủ trương "tiến thẳng lên CNXH" của Hồ Chí Minh để có thể hiểu rõ hơn. Điều đáng chú ý là ý đồ "tiến thẳng lên CNXH" từ một nước nông nghiệp lạc hậu, vừa ra khỏi chiến tranh chống thực dân Pháp, là vừa không phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của đất nước, vừa đi ngược lại quan điểm của Mác. Bởi vì, như một đảng viên cao cấp đã nhận xét "theo Mác và Ănghen, CNXH chỉ có thể thành công ở những nước có nền công nghiệp phát triển, nghĩa là đã qua giai đoạn cao của chủ nghĩa tư bản" 50. Quan điểm này của Mác cũng là lý thuyết suông thôi vì cho đến nay dự đoán này chưa bao giờ được cụ thể hóa cả!.

Thẳng thắn mà nói thì chủ trương "tiến thẳng lên CNXH" nói trên là sai lầm to lớn nhất và tai hại nhất của Hồ Chí Minh trong lĩnh vực kinh tế. Chính xuất phát từ đó mà, trong "Báo cáo về dự thảo hiến pháp sửa đổi năm 1959", Hồ Chí Minh khẳng định "chế độ ta [phải] xóa bỏ các hình thức sở hữu không XHCN [tức là sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất của người lao động riêng lẻ và của nhà tư sản - VNT. ] làm cho nền kinh tế gồm nhiều thành phần phức tạp trở nên một nền kinh tế thuần nhất dựa trên chế độ sở hữu toàn dân [tức là sở hữu quốc doanh, của nhà nước -VNT. ] và sở hữu tập thể [tức là của các hợp tác xã]" [chúng tôi nhấn mạnh - VNT]. Và Hồ Chí Minh còn nói thêm: "kinh tế quốc doanh là hình thức sở hữu của toàn dân, nó lãnh đạo nền kinh tế quốc dân, và Nhà nước phải bảo đảm cho nó phát triển ưu tiên; chúng ta phát triển thành phần kinh tế quốc doanh để tạo nền tảng vững chắc cho CNXH và thúc đảy việc cải tạo XHCN" 51.

Hồi tưởng lại quá khứ, một đảng viên cao cấp đã thừa nhận là "vào giai đoạn trước đổi mới, chúng ta [ĐCSVN] đã phạm sai lầm là rập khuôn mô hình cứng nhắc [của Stalin và Mao - VNT] về CNXH, thuần nhất thành phần kinh tế XHCN dưới hai hình thức: quốc doanh và tập thể, (...), thủ tiêu các thành phần khác. Những sai lầm này đã diễn ra ở nước ta trong một thời gian dài, và chúng ta phải trả giá quá đắt" 52.

Trong những năm 80, ông Trường Chinh 53 và ông Nguyễn Văn Linh 54 đều thừa nhận là việc xóa bỏ các khu vực kinh tế tư nhân theo chủ trương của ĐCS [và Hồ Chí Minh] lúc đó là một trong những sai lầm "ấu trĩ tả khuynh", "duy ý chí", bởi vì các thành phần kinh tế đó còn rất cần thiết cho sự phát triển kinh tế quốc dân.

Chính xuất phát từ chủ trương xóa bỏ các thành phần kinh tế tư nhân cho nên Hồ Chí Minh thúc giục thực hiện khẩn trương kế hoạch 3 năm (1958-1960) ở miền Bắc nhằm "thực hiện cải tạo XHCN đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, và công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa tư doanh [mà] khâu chính là cải tạo... nông nghiệp" [chúng tôi nhấn mạnh -VNT] 55. Không những tán thành chung chung thôi mà Hồ Chí Minh, theo một tài liệu của Ủy ban nghiên cứu lịch sử ĐCS, còn "theo dõi và chỉ đạo sát sao công cuộc cải tạo XHCN" đó nữa 56.

***


Về vấn đề cải tạo XHCN đối với nông nghiệp, tức là hợp tác hóa nông nghiệp, Hồ Chí Minh đã chỉ thị như sau: "Đường lối cải tạo XHCN (...) đối với nông nghiệp là đưa nông dân làm ăn riêng lẻ đi dần [nhưng trong thực tế thì thúc ép họ - VNT] từ tổ đổi công... tiến lên hợp tác xã cấp thấp... rồi tiến lên hợp tác xã cấp cao"; "các hợp tác xã, dưới sự lãnh đạo của đảng phải trở thành những đội quân vững mạnh của (...) nông dân lao động, trong cuộc phát triển sản xuất"; "yêu hợp tác xã như nhà, chống tư tưởng làm ăn riêng lẻ và những tư tưởng... có ảnh hưởng xấu cho việc củng cố phát triển hợp tác xã" 57. Ông Hồ còn theo dõi và chỉ đạo cụ thể việc biên soạn điều lệ hợp tác xã nông nghiệp, và tự tay viết lời giới thiệu bản điều lệ đó 58. Điều này nói lên tầm quan trọng của phong trào hợp tác hóa nông nghiệp đối với Hồ Chí Minh.

Trong bài diễn văn đọc tại hội nghị trung ương ĐCS lần thứ 5 bàn về nông nghiệp (tháng 07.1961) Hồ Chí Minh đánh giá phong trào hợp tác hóa nông nghiệp như sau: "Chúng ta nhất trí nhận định rằng phong trào hợp tác hóa nói chung là tốt (tác giả nhấn mạnh - VNT) 59, chính trong lúc đang xảy ra "những biểu hiện (...) nóng vội, gò ép [tức là thúc ép một cách thô bạo nông dân chuyển từ tổ đổi công lên hợp tác xã trong một thời gian rất ngắn - VNT], và các lệch lạc khác" như một đảng viên đã thú nhận 60.

Năm 1965, trong một bài báo tổng kết 20 năm cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã khẳng định: "với các hợp tác xã, nông nghiệp đã phát triển vững chắc" 61 trong lúc mà các số liệu chính thức cho thấy là sản lượng lương thực trong suốt thời kỳ 1960-1964 chưa vượt qua nổi mức đạt được hồi năm 1959, năm mà ông Trường Chinh chỉ thị phải thúc đẩy phong trào hợp tác hóa nông nghiệp 62.

Một điều quan trọng cần nhắc lại ở đây là, trong một thông điệp đề ngày 01.05.1969, Hồ Chí Minh đã đứng hẳn về phía Trường Chinh chống lại kinh nghiệm khoán hộ "chui" do Kim Ngọc, bí thư tỉnh ủy Vĩnh Phú đề xướng hồi năm 1968 63 nhằm kích thích lợi ích của xã viên để họ hăng hái tham gia sản xuất. [Lúc đó ĐCSVN cũng bắt chước ĐCS Trung Quốc phê phán việc khoán hộ "chui" trước đó vài năm]. Phải đợi tới 13 năm sau thì kinh nghiệm khoán hộ đối với hợp tác xã nông nghiệp mới được ĐCSVN chấp nhận chính thức, và được áp dụng trên toàn quốc với chỉ thị 100 CT/TU nổi tiếng của Ban bí thư trung ương Đảng (tháng 01-1981).

Nhìn lại quá khứ, một số nhà kinh tế học Việt Nam, trong một tài liệu nội bộ, thừa nhận: "Phân tích diễn biến tình hình và hệ quả của 30 năm [từ năm 1958 trở đi - VNT] đối với tình hình kinh tế - xã hội nông thôn nước ta [ta thấy] (...) khuyết điểm và sai lầm trong nhận thức, trong chủ trương, trong chỉ đạo thực hiện, nhất là bước đi của phong trào hợp tác hóa nông nghiệp, là thực tế, rõ ràng. Những sai lầm, khuyết điểm đó đã và đang gây hậu quả nặng nề đối với thực trạng kinh tế - xã hội của đất nước... Trong 30 năm hợp tác hóa nông nghiệp, bằng những cuộc cải tạo vội vàng và bất chấp quy luật, dẫn đến tập thể hóa mà thực chất là tước đoạt một cách rộng khắp và mau lẹ quyền sở hữu ruộng đất của nông dân, chính sách đó đã biến (...) nông dân từ những người sản xuất tự do thành những người làm thuê ăn điểm cho những ông chủ tập thể vô hình [tức là chủ nhiệm hợp tác xã - VNT]. Đó là sai lầm lớn nhất của 30 năm hợp tác hóa nông nghiệp mà đến nay hậu quả còn nặng nề... " (tác giả nhấn mạnh -VNT) 65. Một nhà kinh tế học khác ở Hà Nội cũng nhận xét: "Người nông dân... thực chất biến thành người lao động... [cho] hợp tác xã. Kiểu kinh tế này (...) đối lập với hoạt động sản xuất nông nghiệp, vì thế [cho nên] nông nghiệp và kinh tế nông thôn đi tới chỗ đình đốn, suy thoái và khủng hoảng"66.

***


Song song với chủ trương cưỡng bách nông dân cá thể đi vào con đường hợp tác hóa nông nghiệp, Hồ Chí Minh và ĐCSVN còn chủ trương "cải tạo XHCN" đối với giai cấp tư sản trong công, thương nghiệp [một uyển ngữ để nói việc đánh giai cấp tư sản tơi bời - VNT] theo mô hình của Lênin và nhất là của Mao.

Trong bản "Báo cáo về dự thảo hiến pháp sửa đổi" hồi năm 1959, Hồ Chí Minh đã viết: "Hiện nay chúng ta có điều kiện để cải tạo họ [giai cấp tư sản - VNT] theo con đường XHCN... Nhà nước khuyến khích họ [trong thực tế là ép buộc họ - VNT] cải tạo theo XHCN bằng hình thức công-tư hợp doanh và những hình thức cải tạo khác" 67. Năm 1960, Hồ Chí Minh nhấn mạnh một lần nữa: "Một việc cần kíp là cải tạo (...) giai cấp tư sản dân tộc. Do bản chất của họ, họ vẫn luyến tiếc cách bóc lột và muốn phát triển theo chủ nghĩa tư bản. Nhưng trong điều kiện miền Bắc tiến lên CNXH, ý nguyện của họ không thể nào thực hiện được" 68.

Để hồi tưởng lại cuộc phát động quần chúng cải tạo công, thương nghiệp, tư bản, tư doanh, chúng tôi xin trích sau đây một đoạn trong quyển sách của Thành Tín: "Cuộc cải tạo công thương nghiệp, loại bỏ giai cấp tư sản dân tộc [trong thời kỳ 1958-1960 ở miền Bắc - VNT] - vẫn là theo kinh nghiệm của Trung Quốc (...), vẫn là theo sự "giúp đỡ" của các... phái viên đặc biệt của Mao... về cải tạo công thương nghiệp (...) về tận diệt nền sản xuất tư doanh (...). Các cuộc tố khổ, tính sổ bóc lột của tư sản, kể lể những thủ đoạn bóc lột, hà hiếp lao động, buôn gian bán lận, cân đo gian dối, buôn lậu,. tham tiền bất nhân (...) được phơi bày (...) Những hóa đơn, giấy tờ kinh doanh quan hệ với các hãng, công ty ở Pháp, Hồng kông (...) bị coi là tài liệu liên hệ với giai cấp tư sản đế quốc, cấu kết với bọn phản động quốc tế"! 69 Trong đợt "cải tạo" này có trường hợp một cơ sở sản xuất trình độ thủ công với 10 người thợ, phần đông là con cháu họ hàng, cũng bị quy thành tư sản và cứ thế là bị kiểm thảo, truy bức, truy thu. Đáng thương hại là con cháu của các gia đình bị xếp vào loại tư sản thì không bao giờ có thể vào đại học, dù là khi thi vào được điểm rất cao; và khi đã tốt nghiệp rồi mà xin đi làm cho cơ quan Nhà nước thì cũng bị khước từ. Thành phần lý lịch tư sản trở thành một cái bướu dính vào suốt đời họ.

Một nhân vật xuất hiện trong chiến dịch đánh tư sản từ cuối năm 1956 là ông Đổ Mười. Ông này đã lập công lớn ở Hải Phòng, Hà Nội, Nam Định. Trong một hội nghị cán bộ toàn thành phố Hà Nội, ông Đổ Mười đã dặn dò cán bộ như sau: "bọn tư sản" giống như lũ chuột cống; khi thấy nó lú đầu ở đâu thì phải đập cho nó chết ngay! [Chúng tôi không nhớ rõ nguyên văn, nhưng đại ý là như vậy - VNT]. Nhờ "thành tích" đánh tư sản ở miền Bắc mà ĐCS liền xuất tướng ông này vào miền Nam sau 1975 để chỉ huy công cuộc "cải tạo XHCN" đối với công thương nghiệp tư doanh ở Sài Gòn.

Hậu quả của công cuộc "cải tạo XHCN" ở miền Bắc là, như nhà lão thành cách mạng Nguyễn Văn Trấn đã nhận xét: "cải tạo tư sản... làm cho nền kinh tế miền Bắc cứ nghèo, nghèo, nghèo!"70.

Nhìn lại quá khứ, các nhà sử học Việt Nam cho rằng việc "cải tạo XHCN" ở miền Bắc đã phạm phải sai lầm "chủ quan, nóng vội"71. Và cựu ủy viên Bộ chính trị Nguyễn Đức Bình, một người bảo thủ, giáo điều khét tiếng, cũng thừa nhận là: "Chúng ta [ĐCSVN] đã phạm sai lầm (...), nóng vội trong cải tạo XHCN, muốn xóa bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần (...)" 72.

***


Ngoài chủ trương "cải tạo XHCN" nói trên, Hồ Chí Minh còn "luôn luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của nhiệm vụ công nghiệp hóa XHCN nước nhà" [lẽ dĩ nhiên là theo mô hình công nghiệp hóa của Stalin - VNT] 73. Tại hội nghị trung ương lần thứ 7 (tháng 04.1962) bàn về công nghiệp hóa miền Bắc, Hồ Chí Minh đã chỉ thị: "Để đạt mục đích công nghiệp hóa XHCN, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức thực hiện đầy đủ nghị quyết của hội nghị thứ 7 của trung ương" 74, tức là thực hiện chính sách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng - dù ở miền Bắc không có đủ điều kiện để làm việc đó - nhằm biến nền kinh tế miền Bắc thành một nền kinh tế hiện đại trong vòng 10 năm! 75. Sau đó, năm 1964, trong một bài nói chuyện tại Bộ công nghiệp nặng, Hồ Chí Minh nhấn mạnh một lần nữa: "để xây dựng thắng lợi CNXH, chúng ta phải quyết tâm phát triển tốt công nghiệp nặng" 76.

Phải chờ tới tháng 10.1986, ông Trường Chinh mới thừa nhận rằng việc ĐCSVN thiên về phát triển công nghiệp nặng ở miền Bắc từ năm 1962 trở đi vượt quá khả năng thực tế của đất nước là một trong những "sai lầm ấu trĩ tả khuynh" 77 của ĐCSVN; và ý kiến này được nhấn mạnh một lần nữa trong báo cáo chính trị của ông Trường Chinh tại Đại hội 6 của ĐCSVN hồi tháng 12.1986 78.

Tiếp theo đó, ông Nguyễn Văn Linh, lúc đó là Tổng bí thư đảng, cũng thừa nhận, trong một bài diễn văn đọc tại hội nghị trung ương lần thứ 5 (tháng 06.1988) rằng một trong những sai lầm có tính cách chiến lược của ĐCSVN trước đó là quá chú ý đến phát triển công nghiệp nặng trên quy mô rộng lớn, đồng thời coi nhẹ phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ 79.

Nhìn chung, chúng ta thấy nội dung kinh tế trong "tư tưởng Hồ Chí Minh" như đã nói bên trên không khác gì lắm so với khía cạnh kinh tế trong tư tưởng của Mao Trạch Đông80. Điều này không có gì là lạ vì chính Hồ Chí Minh [dưới bút danh Trần Lực] đã từng hô hào: "Việt Nam nên áp dụng hoàn toàn kinh nghiệm xây dựng kinh tế XHCN của Trung Quốc" 81.

Sở dĩ chúng tôi phân tích khá chi tiết các khía cạnh kinh tế của "tư tưởng Hồ Chí Minh" liên quan tới CNXH là để bù lại phần nào sự thiếu sót về phương diện này trong các quyển sách xuất bản ở trong nước. Trong những sách đó người ta thường chỉ nêu lên mục tiêu chung chung mà Hồ Chí Minh đã vạch ra cho CNXH ở Việt Nam như là "mọi người được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do" 82 mà cố ý không nhắc lại các chủ trương và chính sách cụ thể mà Hồ Chí Minh đã đề ra nhằm thực hiện mục tiêu đó. Hơn nữa, trong các quyển sách xuất bản ở trong nước, người ta tránh đối chiếu các chính sách của Hồ Chí Minh với hậu quả tai hại của nó cho đất nước, cho dân tộc. Và hậu quả tổng quát về mặt kinh tế là, như ông Võ Nguyên Giáp đã thừa nhận trong một hội nghị quốc tế về "tư tưởng Hồ Chí Minh" tại Hà Nội năm 1990 là "nền kinh tế - xã hội [của Việt Nam] đang ở trong tình trạng trì trệ, nghèo khổ. Đời sống của nhân dân cũng như năng suất lao động đang ở trong tình trạng thấp kém và lạc hậu hàng mấy thế kỷ, không những so với các nước phát triển mà so cả với những nước trong khu vực (Đông Nam Á - VNT)" 83.

Tình hình thực tế này hoàn toàn bác bỏ luận điệu lừa bịp của bộ máy tuyên truyền của ĐCSVN khi họ khẳng định rằng Hồ Chí Minh "là một vĩ nhân..., là người mở đường cho nước ta xây dựng phồn vinh (?) của đất nước" 84.

Nhận xét một cách tổng quát về "tư tưởng Hồ Chí Minh" - cả về mặt chính trị lẫn về mặt kinh tế - anh Lữ Phương cho rằng "sự lựa chọn đường đi [tức là mô hình Stalinít - Maoít - VNT] của Hồ Chí Minh cho Việt Nam là chọn lựa bất toàn; nó có thể giành được độc lập cho dân tộc qua các hình thức đấu tranh bạo lực, nhất là chiến tranh, nhưng đã thất bại toàn diện trong xây dựng hòa bình. Điều này đã được chứng thực rất hiển nhiên qua hơn nửa thế kỷ thực hành (...). [Một mặt] khoác lác về cái gọi là "dân chủ gấp triệu lần" [ám chỉ cái gọi là "dân chủ XHCN" -VNT] nhưng lại đè đầu cưỡi cổ nhân dân một cách tự nhiên như những cường hào. [Mặt khác] làm mất hoàn toàn động lực về phát triển kinh tế qua chủ trương nhà nước hóa toàn bộ hoạt động sản xuất. Nói chung: giam hãm dân tộc trong cái ao tù chuyên quyền độc đoán [về mặt chính trị - VNT] và lạc hậu nghèo nàn [về mặt kinh tế -VNT]..." 85.

Bàn về trách nhiệm của Hồ Chí Minh trước lịch sử dân tộc, anh Lữ Phương nêu lên câu hỏi sau đây: "...
[Hồ Chí Minh] đem ra thực hiện một cách toàn diện cái mô hình XHCN phi thị trường và chuyên chính vô sản trong suốt một thời gian đằng đẵng làm cho dân tộc cất đầu dậy không nổi (...) Chẳng lẽ cụ là người sinh ra đảng, người lập ra nước... mà không [có] trách nhiệm gì trước những chuyện tày đình đó hay sao?" 86.

Trong nhiều năm qua, ĐCSVN thường xuyên hô hào là phải dựa vào "tư tưởng Hồ Chí Minh" để đẩy mạnh công cuộc "đổi mới". Nhưng làm sao có thể dựa vào chủ trương, chính sách kinh tế của Hồ Chí Minh chẳng hạn (như đã phân tích bên trên) để "đổi mới" kinh tế khi nó trái ngược hẳn với chính sách đổi mới hiện nay? Vả lại chính sách kinh tế của Hồ Chí Minh trong những năm 50 và 60 đã bị Đại hội lần thứ 6 của ĐCS (tháng 12.1986) gián tiếp phê phán là "sai lầm ấu trĩ tả khuynh" vì nó " kìm hãm lực lượng sản xuất và triệt tiêu động lực phát triển" 87. Khẳng định rằng "ngày nay những luận điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh về CNXH ở nước ta vẫn giữ nguyên ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới" 88, hoặc nói rằng "tư tưởng Hồ Chí Minh" vẫn là "đúng đắn, sáng tạo" 89 trong sự nghiệp "đổi mới" kinh tế hiện nay như ĐCS đang làm là ngược đời hoàn toàn! Viện lý "tư tưởng Hồ Chí Minh" để hỗ trợ cho chính sách "đổi mới" kinh tế hiện nay là một nghịch lý!

Còn về mặt chính trị, việc ĐCSVN tiếp tục áp đặt chủ nghĩa Mác-Lê, độc quyền cai trị 80 triệu dân thông qua "chuyên chính vô sản", dưới hình thức của cái gọi là "nhà nước của dân, do dân, vì dân", hoặc "nhà nước XHCN", và vẫn "tiến lên CNXH" như Hồ Chí Minh đã từng chủ trương thì, ai cũng nhận ra là, dưới lá cờ "đổi mới" chính trị, chỉ có đổi chút ít về hình thức thôi, nhưng về nội dung cơ bản thì không có gì là mới cả. Tóm lại, nếu dựa vào "tư tưởng Hồ Chí Minh" để hỗ trợ cho chính sách "đổi mới" chính trị thì phải nói thẳng ra là có đổi nhưng không có gì mới!

Bây giờ chúng tôi sẽ lần lượt bàn về "đổi mới" kinh tế lẫn "đổi mới" chính trị !

***


Chú Thích (Chương I)
1. Yang Chungui, "Deng Xiaoping, Theory & The Historical destiny of Socialism", Social Sciences in China, Spring 1, 2001, Beijing (China), tr. 30-47.
- Lý Thiết Anh (Viện trưởng Viện khoa học xã hội Trung Quốc), Báo cáo ở Trung Tâm khoa học xã hội, Hà Nội (11.02.2000), trong tạp chí Nghiên cứu kinh tế (sẽ gọi tắt NCKT), Hà Nội, tháng 03.2000, tr. 58-69.
- Marie-Claire Bergère, "La Chine de 1949 à nos jours", 3è éd., Paris, Colin, 2000, tr. 3; 167; 172; 175.
- J. L. Domenach, "La Chine post-totalitaire", tạp chí Commentaire, Plon, (Pháp) No 93, Printemps 2001, tr. 35-46. Cùng một tác giả, xem "L'Asie en Danger", Ed. Fayard, Paris, 1998, chương 4.
2. Về khái niệm giai đoạn đầu của CNXH, do Giang Trạch Dân đưa ra tại Đại hội 13 của ĐCS Trung Quốc (1987), xem MARIE - Claire Bergère, "La Chine... ", sđd, tr. 208; và Quang Huy, Tạp Chí Cộng Sản (sẽ gọi tắt TCCS), Hà Nội, số 23, tháng 12.1999, tr. 56.
3. Nhân Dân (sẽ gọi tắt ND), Hà Nội, 24.04.2001; và TCCS, số 9, tháng 05.2001.
4. Far Eastern Economic Review (sẽ gọi tắt FEER) trích dẫn, Hongkong, April 09.1998.
5. N. Chanda trích dẫn Lê Khả Phiêu, FEER, June 06.2000
6. Trần Đức Lương, TCCS số đặc biệt 4 & 5, tháng 02.2002, tr. 5.
7. ND, 24.04.2001.
8. Thư mục chọn lọc về "Tư tưởng Hồ Chí Minh":
- Võ Nguyên Giáp (Chủ biên), "Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam", NXBCTQG, Hà Nội, 2000.
- Phạm Văn Đồng, "Ho Chi Minh, un homme, une nation... ", ELE, Hanoi, 1990. - "Ho Chi Minh", Ed. Thế Giới, Hanoi, 1997 (ouvrage collectif rédigé par la Commission de l'histoire du Parti Communiste Vietnamien, traduit en franixs)
- Nguyễn Khánh Bật, "Những bài giảng về môn học tư tưởng Hồ Chí Minh", NXBCTQG, Hà Nội, 1999.
- Pierre Brocheux, "Ho Chi Minh", Presses de Sciences PO, Paris, 2000.
- William Duiker, "Ho Chi Minh", New York, Hyperion Press, 2000.
- Jean Lacouture, "Ho Chi Minh", Ed. Seuil, Paris, 1967. Cùng một tác giả, xem "Mes héros et nos monstres ou Le temps des démiurges", Ed. Seuil, Paris, 1997 (xem chương nói về Hồ Chí Minh, tr. 102-110)
- Lữ Phương, "Huyền thoại về Hồ Chí Minh", tạp chí Thế Kỷ 21 (sẽ gọi tắt TK 21), (Mỹ), tháng 12.2001, tr. 63-71.
- Thanh Phong, "Phê phán tư tưởng Hồ Chí Minh", TK21, tháng 02.2001, tr. 12-15.
- Tôn Thất Thiện, "Luận bàn về Tư tưởng Hồ Chí Minh",Tin Nhà, Paris, số 27, Avril 1997.
- Võ Nhân Trí, "Tư tưởng Hồ Chí Minh có mâu thuẫn gì với chính sách "đổi mới" không? ", trong quyển sách tập thể: "Đảng Cộng Sản trước thực trạng Việt Nam", NXB Đường Mới, Paris, 1994, tr. 63-94.
9. Trích theo Nguyễn Văn Trấn, "Viết cho Mẹ và Quốc hội", NXB Văn Nghệ, California (Mỹ), 1995, tr. 151.
10. Trích theo Nguyễn Minh Cần, "Đảng Cộng Sản Việt Nam qua những biến động trong phong trào cộng sản quốc tế", NXB Tuổi Xanh (Mỹ), 2001, tr. 36. Về Stalin nói chung, xem Dimitri Volkogonov, "Staline, triomphe et tragédie", Flammarion, Paris, 1991.
11. Trích theo P. Brocheux, "Ho Chi Minh", sđd, tr. 93.
12. Ho Chi Minh, "Oeuvres Choisies", t.2, ELE, Hanoi, 1962, tr. 221-222. Chúng tôi dịch lại từ bản tiếng Pháp bởi vì đoạn quan trọng này đã bị cắt xén trong "Hồ Chí Minh, Toàn Tập" (bản tiếng Việt), NXBS.T, t.6, Hanoi, 1986, tr. 12.
Xem thêm về Tư tưởng Mao Trạch Đông:
- Stuart R. Schram, "The thought of Mao tse Toung", New York, Cambridge University Press, 1989.
- Marie-Claire Bergère, "La Chine de 1949... ", sđd, tr. 172 và tiếp theo.
- Dr. Li zhi Sui, "La vie privée du président Mao", Plon, Paris, 1994.
- Encyclopaedia Universalis, "Mao et Maoisme", t.14; tr. 476-480.
13. Trích theo Nguyễn Minh Cần, "Đảng Cộng Sản Việt Nam... ", sđd, tr. 63. Cùng xem phỏng vấn của Bùi Tín, tạp chí Thông Luận (sẽ gọi tắt TL), Paris, tháng 10.2001, tr. 9.
14. Phạm Văn Đồng, "Ho Chi Minh, un homme.... ", sđd, tr. 84.
15. Hồ Chí Minh, "Toàn Tập", NXBCTQG, Hà Nội, 1995; t.10; tr. 17.
16. Xem Trần Gia Phụng, "Án tích Cộng Sản Việt Nam", NXB Non Nước, Toronto (Canada), 2001, chương 3; và Bs. Trần ngươn Phiêu, TK 21, tháng 05.1999, tr. 21 và tiếp theo.
17. Hồ Chí Minh, "Toàn Tập... ", trích theo Nguyễn Minh Cần, "Đảng Cộng Sản Việt Nam... ", sđd, tr. 97.
18. Daniel Guérin, "Au service des colonies" do Jean Lacouture trích dẫn trong "Hồ Chí Minh", sđd, tr. 123.
19. "Tuyển tập Nguyễn Kiến Giang", NXB Trăm Hoa (Mỹ), 1993, tr. 72, và 129-130.
20. Ho Chi Minh, "Écrits 1920-1969", ELE, Hanoi, 1971, tr. 230.
21. Nguyễn Minh Cần, "Đảng Cộng Sản Việt Nam... ", sđd, tr. 82.
22. Hồ Chí Minh, "Toàn Tập", NXBS.T, Hà Nội, 1989, t.7, tr. 548.
23. Trích theo Dimitri Volkogonov, "Le vrai Lénine", Laffont, Paris, 1995, tr. 314. Ở một chỗ khác, Hồ Chí Minh còn nói: "Tập thể lãnh đạo là dân chủ", Hồ Chí Minh, "Toàn Tập", NXBCTQG, Hà Nội, 1995, t.5, tr. 505.
24. Lữ Phương, tạp chí Diễn Đàn (sẽ gọi tắt là DĐ), Paris, tháng 11.1993, tr.19 và 22.
25. Nguyễn Minh Cần, "Đảng Cộng Sản Việt Nam... ", sđd, tr. 125-126.
26. Nguyễn Văn Trấn, "Viết cho Mẹ... ", sđd, tr. 345.
27. Thành Tín, (bút danh Bùi Tín), "Mặt Thật", Saigon Press (Mỹ), 1993, tr. 3.
28. Dương Thu Hương, trong Reader's Digest, trích theo tạp chí "Việt Nam Dân Chủ" (sẽ gọi tắt VNDC). Paris, tháng 01.1999, tr. 20.
29. Dương Thu Hương, trích theo tạp chí "Quê Mẹ", Paris, tháng 04 & 05, 1990, tr. 38 và theo TK21, tháng 06.2000, tr. 53.
30. Nguyễn Chí Thiện, "Hỏa Lò", NXB Tổ Hợp xuất bản miền Đông Hoa Kỳ, 2001, tr. 153 và 169.
31. J. Lacouture, "Ho Chi Minh", sđd, tr. 178-179; 181.
32. Oliver Todd, "Ho Chi Minh, l'homme et son héritage" (sách tập thể), NXB Đường Mới, Paris, 1990, tr. 182.
33. Ho Chi Minh, "Écrits 1920-1969", ELE, Hanoi, 1971, tr. 215-219; và tr. 239-242.
34. Hồ Chí Minh, Toàn Tập, NXBS.T, Hà Nội, 1984, t.7, tr. 783.
35. Song Thành, TCCS số 5, 1991, tr. 4.
36. Hồ Chí Minh, Tuyển Tập, NXBS.T, Hà Nội, 1980; t.2; tr. 159.
37. Hồ Chí Minh, Toàn Tập, NXBCTQG, Hà Nội, 1995; t.2; tr. 280.
38. Hồ Chí Minh, Tuyển Tập, t.2, sđd, tr. 186-187.
39. Hồ Chí Minh, Toàn Tập, NXBCTQG, Hà Nội, 1995; t.9; tr. 156-157.
40. Võ Nguyên Giáp (Chủ biên), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường..., sđd, tr. 138.
41. Tuyển Tập Nguyễn Kiến Giang, sđd, tr. 131.
42. ibid, tr. 125; 131; 133.
43. Hồ Chí Minh, Toàn Tập, NXBCTQG, Hà Nội, 1995; t.2; tr. 270.
44. Hồ Chí Minh, Toàn Tập, NXBCTQG, Hà Nội, 1995; t.4; tr. 56-57.
45. Lữ Phương, DĐ, tháng 11.1993.
46. Trần Độ, TL, tháng 02.1999, tr. 15.
47. Trần Độ, TL, tháng 03.1998, tr. 34.
48. Nguyễn Hộ, Quan điểm và cuộc sống, Thành phố Hồ Chí Minh, 1993, ronéo, tr. 29.
49. Võ Nguyên Giáp (Chủ biên), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường..., sđd, tr. 371.
50. Thành Duy, TCCS số 03.1990, tr. 44.
51. Hồ Chí Minh, Tuyển Tập, NXBS.T, Hà Nội, 1980; t.2; tr. 130-131.
52. Vũ Xuân Kiều, TCCS số 03.1993, tr. 49.
53. Trường Chinh, ND, 20.10.1986.
54. Nguyễn Văn Linh, ND, 25.10.1986 và ND 31.03.1989 (diễn văn tại hội nghị Trung ương lần 6; tháng 03.1999).
55. Hồ Chí Minh, Tuyển Tập, t.2, sđd, tr. 161.
56. Ho Chi Minh, Ed. Thế Giới, Hanoi, 1997, tr. 188 (bản dịch tiếng Pháp).
57. Hồ Chí Minh, Tuyển Tập, t.2, sđd, tr. 131; 162; 170; 173.
58. Song Thành, TCCS số 05.1991, tr. 4.
59. Hồ Chí Minh, Tuyển Tập, t.2, sđd, tr. 227.
60. Song Thành, TCCS số 05.1991, tr. 4; và Võ Nhân Trí, "Vietnam's Economic Policy since 1975", Institute of Southeast Asian Studies, Singapore, 1990, tr. 14-15.
61. Hồ Chí Minh, Tuyển Tập, t.2, sđd, tr. 386.
62. Trường Chinh, Resolutely taking the North Vietnam countryside to socialism through agricultural cooperatives", FLPH, Hanoi, 1959, tr. 21; và Võ Nhân Trí, Vietnam's Economic Policy since 1975, sđd, tr. 11 và 19.
63. ND, 09.08.1969.
64. Võ Nhân Trí, Vietnam's Economic Policy since 1975, sđd, tr. 132.
65. Thực trạng kinh tế - xã hội Việt Nam - Giai đoạn 1986-1990, Tạp chí "Thống Kê" xuất bản, Hà Nội, 1990, tr. 55-56 (Tài liệu tham khảo nội bộ).
66. Lê Cao Đoàn, NCKT, tháng 02.1999, tr. 39.
67. Hồ Chí Minh, Tuyển Tập, t.2, sđd; tr. 128; 131-132.
68. Hồ Chí Minh, ibid, tr. 162-163. Về vấn đề "cải tạo XHCN" ở miền Bắc, xem chi tiết: Võ Nhân Trí, Vietnam's Economic..., sđd, tr. 26-28.
69. Thành Tín, Mặt Thật, sđd, tr. 75-78.
70. Nguyễn Văn Trấn, Viết cho Mẹ..., sđd, tr. 211.
71. Viện Sử Học, Lịch sử Việt Nam, 1954-1965, NXBKHXH, Hà Nội, 1995, tr. 90.
72. Nguyễn Đức Bình, TCCS số 4, tháng 02.2000, tr. 17.
73. Xem bài của Lê Thi trong quyển sách tập thể, Tìm hiểu một số vấn đề trong tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh", NXBS.T, Hà Nội, 1982, tr. 77.
74. Hồ Chí Minh, Tuyển Tập, t.2; sđd, tr. 267. Về nghị quyết của hội nghị Trung ương lần thứ 7, xem Le chemin du bonheur et de la prospérité, ELE, Hà Nội, 1963.
75. Võ Nhân Trí, Vietnam's Economic..., sđd, tr. 30.
76. Hồ Chí Minh, Tuyển Tập, t.2, tr. 347.
77. ND, 02.10.1986 và ND, 5 & 6 tháng 11.1986.
78.6th National Congress of the Communist Party of Vietnam, Documents, FLPH, Hanoi, 1987, tr. 18-19. 79. ND, 23.06.1988.
80. Về khía cạnh tiêu cực của chủ nghĩa Mao, xem Marie-Claire Bergière, La Chine 1949..., sđd, tr. 172 và tiếp theo.
81. Trần Lực (bút danh của Hồ Chí Minh), Mấy kinh nghiệm của Trung Quốc mà chúng ta nên học, NXBS.T, Hà Nội (không ghi rõ năm).
82. Hồ Chí Minh, Toàn Tập, NXBCTQG, Hà Nội, 1996; t.8; tr. 396.
83. Võ Nguyên Giáp, Tư tưởng bác Hồ soi sáng sự nghiệp đổi mới của chúng ta, NXBS.T, Hà Nội, 1990, tr. 34-35.
84. TCCS số 3, tháng 02.1999, tr. 3.
85. Lữ Phương, TK21, 2001, tr. 67 và 68.
86. Lữ Phương, DĐ, tháng 11.1993.
87. ĐCSVN, Chiến lược ổn định phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, NXBS.T, Hà Nội, 1991, tr. 9. Cùng một quan điểm, xem Trần bá Đệ, tạp chí Nghiên Cứu Lịch Sử, Hà Nội, số tháng 06.1991, tr. 67-68.
88. Tạp chí Khoa Học Xã Hội, Thành phố Hồ Chí Minh, số 25, III.1995, tr. 6.
89. Võ Nguyên Giáp (Chủ biên), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường..., sđd, tr. 147.

Aucun commentaire: