1.[z-qhx] (H) [qhx] (H) [xhds] (H) [stls] (H) [tacs] (H) [db] (H) [gfv] (H) [news] (H) [TdDcNq] [H] - 2.DOWNLOAD TaiLieu - 3. VUOT TUONG LUA - 4.[Chu Viet] - 5.[Audio] 6.[SuThat] 7.[Thu doan cs d/v Ton giao]

mardi 6 février 2007

Ho so Nhan Van Giai Pham - Thuy Khue

Hồ sơ Nhân Văn Giai Phẩm
Thụy Khuê
Nhân văn giai phẩm là phong trào đòi hỏi tự do dân chủ của văn nghệ sĩ và trí thức VN có tầm vóc lớn trong thế kỷ nàỵ Phong trào đã bị dập tắt từ hơn 30 năm nay, nhưng ảnh hưởng và hệ quả đối với đời sống văn hoá và chính trị ở VN vãn còn kéo dài tới ngày naỵ Hôm nay, 38 năm sau, mở lại hồ sơ NVGP, chúng tôi nghĩ rằng không sớm mà cũng chưa muộn.
Theo phát biểu mới đây cuả nhà thơ Lê Ðạt trên RFI thì NVGP là cố gắng nghiêm túc đầu tiên của văn nghệ sĩ để đối thoại với nhà nước. Tiếc rằng cuộc đối thoại đã chấm dứt một cách bi kịch. Cuộc đối thoại này khởi nguồn từ đầu năm 1955 và kết thúc vào tháng Sáu năm 1958 với lao tù và cải tạo.
Ðầu năm 58, có 2 hội nghị quan trọng của những người làm công tác văn nghệ. Hội nghị đầu, tháng Hai năm 1958 gồm có 172 người tham dự, Hội nghị sau vào tháng Ba năm 1958 có 304 người tham dự với mục đích chính thức là: nghiên cứu Nghị quyết cuả bộ Chính Trị Ban chấp hành Trung ương đảng Lao Ðộng VN, kết hợp với 2 bản tuyên ngôn và tuyên bố của Hội nghị các đảng Cộng sản và các đảng Công nhân, họp tại Mạc Tư Khoa cuối năm 1957.
Qua 2 hội nghị trên đây, những người dính líu đến phong trào NVGP bị phát hiện, bị tố giác. Một danh sách nhiều tên tuổi được thành hình, dường như sắp theo thứ tự từ tên đầu sỏ từ trong nguyên văn trở đi: Thụy An, Nguyễn Hữu Ðan, Trần Thiếu Mão, Trương Tửu, Trầu Ðức Thảo, Phan Khôi, Trần Duy, Trần Dần, Lê Ðạt, Từ Phát, Ðặng Ðình Hưng, Hoàng Cầm, Sĩ Ngọc, Chu Ngọc, Văn Cao, Nguyễn văn Tý, Phùng Quán, Hoàng Tích Linh, Trần Công, Trần Thịnh, Phan Vũ, Hoàng Huế, Huy Phương, Vĩnh Mai, Như Mai tức Châm văn Biếm, Hữu Thung, Nguyễn Ðắc Dực, Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Yến, Thanh Bình, Yến Lan, Nguyễn Thành Long, Trần Lê Văn, Lê Ðại Thanh, v.v ... và v.v ...
Vẫn theo ngôn ngữ chính thống thì "trận chiến đấu chống bọn phá hoại NVGP" đã kết thúc bằng hội nghị của ban chấp hành hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật VN, họp lần thứ 3 tại Hà Nội ngày 4-6-1958 với báo cáo tổng kết của Tố Hữu, và nghị quyết của ban chấp hành hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật lên án nhóm NVGP. Ngày 5-6-1958 tại Hà Nội, hơn 800 văn nghệ sĩ thảo bàn nghị quyết gọi là "Nghị quyết cuả 800 văn nghệ sĩ" phụ hoạ với nghị quyết cuả hội Liên hiệp. Sau đó trong tuần lễ từ 21-6 cho đến mùng 3-7-1958, lần lượt các ban chấp hành hội Nhạc sĩ, hội Mỹ thuật, hội Nhà văn hùa nhau thi hành biện pháp kỷ luật đối với các thành viên của hội có chân trong phong trào NVGP: hội Nhà văn khai trừ Hoàng Cầm, Hoàng Tích Linh khỏi ban chấp hành, hội Mỹ thuật cảnh cáo Sĩ Ngọc, chấp nhận Sĩ Ngọc, Nguyễn Sáng rút khỏi ban chấp hành, hội Nhạc sĩ chấp nhận Văn Cao, Nguyễn văn Tý rút khỏi ban chấp hành và cả 3 hội nghị quyết định khai trừ Phan Khôi, Trương Tửu, Thụy An ra khỏi hội Nhà văn, Trần Duy ra khỏi hội Mỹ thuật, khai trừ trong thời hạn 3 năm Trần Dần, Lê Ðạt khỏi Hội nhà văn, Từ Phát, Ðặng Ðình Hưng ra khỏi hội Nhạc sĩ Sáng tác và cảnh cáo một số hội viên khác đã tích cực hoạt động trong nhóm NVGP.
Những điều chúng tôi vừa trình bày trên đây rút ra từ quyển sách dầy 370 trang tựa đề "Bọn Nhân Văn Giai Phẩm trước toà án dư luận" do nhà xuất bản Sự Thật phát hành tại Hà Nội năm 1959, ở đây chúng tôi xin gọi tắt là tài liệu cuả nhà Sự Thật.
Tập tài liệu này tập hợp những nghị quyết của các buổi họp, "những lời thú tội", nhóm từ trong nguyên văn, của những thành viên trong NVGP. Những bài viết lên án và mạ lỵ phong trào NVGP cuả 83 văn nghệ sĩ, cùng những lời buộc tội khiếm nhã cuả các đoàn thể và báo chí của nhân dân, quần chúng cũng như của các vị trong ban Chấp hành Trung ương Ðảng.
Nhưng cũng nhờ vào tập tài liệu của nhà xuất bản Sự Thật này và những bài viết đả kích Lê Ðạt và Văn Cao in trong tập tiểu luận "Dao có mài mới sắc" của Xuân Diệu và cuốn sách "Trăm hoa đua nở trên Ðất Bắc" của Hoàng văn Chí mà ngày nay chúng ta có thể biết rõ hơn về tổ chức và hình thức tranh đấu kéo dài của nhóm NVGP trong những năm 55, 56, 57 và 58.
Rời Hà Nội đầu năm 1955, trong 2 năm từ 56 đến 58, Hoàng văn Chí thu thập tài liệu nhờ 1 người bạn làm việc ở ủy ban Kiểm soát Ðình chiến đem báo chí từ Bắc vào Nam. Tập "Trăm hoa đua nở trên đất Bắc" xuất bản tháng giêng năm 1959 tại miền Nam qui tụ phần lớn những tác phẩm tiêu biểu, xuất hiện trong thời kỳ NVGP với tiểu sử tác giả. Nhờ đó mà độc giả miền Nam nhiều người thuộc lòng thơ cuả Trần Dần, Phùng Quán từ hơn 30 năm nay.
Phong trào NVGP manh nha từ đầu năm 1955. Trong quân đội Trần Dần, Lê Ðạt, Từ Phát, Hoàng Cầm đã bắt đâù phản đối đảng bằng 2 con đường: một mặt lên tiếng phê bình tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu; một mặt đòi thứ nhất trả quyền lãnh đạo văn nghệ về tay văn nghệ sĩ, thứ hai thủ tiêu chế độ chính trị viên trong các đoàn văn công quân đội, thứ ba thủ tiêu mọi chế độ quân sự hiện hành trong văn nghệ quân đội, thứ tư thành lập trong quân đội một Chi hội Văn nghệ trực thuộc hội Văn nghệ, không qua cục Tuyên huấn và Tổng cục Chính trị. Theo lời buộc tội cuả Tố Hữu, tài liệu cuả nhà Sự Thật trang 24.
Cùng lúc đó, báo Nói Thật cuả Hoàng Công Khanh trích đăng bài "Sự Chia tay giữa văn nghệ và chính trị" của Lỗ Tấn.
Ðến tháng 6 năm 1956 văn nghệ sĩ mới thực sự chống đối công khaị Giai phẩm mùa Xuân ra đời do Hoàng Cầm, Văn Cao, Lê Ðạt, Trần Dần, Sĩ Ngọc, Từ Phát, Phùng Quán, Nguyễn Sáng, Tô Vũ lập chủ biên. Ngoài những bài đả kích lãnh đạo văn nghệ của đảng còn có bài "Nhất định thắng" của Trần Dần. Giai phẩm muà Xuân bị tịch thu ngay tức khắc. Trần Dần bị bắt. Trong tập tài liệu của nhà Sự Thật, Hồng Cương xác nhận rằng "Nhân cơ hội đó, tất cả các lực lượng đối lập với chủ nghĩa xã hội đều ngóc đầu dậy chống lại sự lãnh đạo cuả đảng và chính phủ. Bọn phản động trong Công giáo hành động phá rối trật tự ở Nghệ An, Nam Ðịnh, v.v ..."
Ba tháng sau đảng phát động chính sách sửa sai. Lợi dụng thời cơ, văn nghệ sĩ cho ra đời Giai phẩm muà Thu, tập một ngày 29-8-1956 với bài Phê bình Lãnh đạo Văn nghệ của Phan Khôi. Ngày 15-9-1956, bán nguyệt san Nhân Văn số 1 ra đời và cuối tháng 10 năm 1956, ở đại học, các giáo sư Trương Tửu, Trần Ðức Thảo huy động sinh viên cho ra tờ Ðất Mới với Phùng Quán, Bùi Quang Ðoài. Ðất Mới ra được một số thì bị đình bản. Cuối tháng 11 năm 1956, đảng hạ lệnh đóng cửa tờ Nhân Văn và Nhân Văn số 6 bị tịch thu. Sắc lệnh ngày 15-12-56 được ban hành cấm tự do báo chí trừ những báo của đảng, chấm dứt số phận những tờ Giai Phẩm, Trăm Hoa, Ðất Mới. Ðảng cho ra tuần báo Văn thay thế với Nguyên Công Hoan, Nguyễn Tuân và Nguyên Hồng. Chẳng bao lâu, báo Văn cũng lại đổi thái độ, bỏ bớt những bài ca tụng, thêm dần những bài chỉ trích. Những cây bút cũ của Nhân Văn giai phẩm lại thấy xuất hiện trên báo Văn. Sau khi báo Văn số 36 ra ngày 10-1-58 đăng bài Ông Năm Chuột cuả Phan Khôi thì Văn bị đình bản hẳn, chấm dứt phong trào Nhân văn giai phẩm.
Về hoạt động cuả phong trào, theo lời buộc tội cuả Tố Hữu, sự phân phối công tác được chia ra như sau: Trần Dần, Lê Ðạt, Hoàng Cầm hoạt động hội Nhà văn.; Trần Duy, Sĩ Ngọc, Nguyễn Sáng ở hội Mỹ thuật; Chu Ngọc, Hoàng Tích Linh ở hội Nghệ sĩ Sân khấu; Từ Phát, Văn Cao, Nguyễn văn Tý, Ðặng đình Hưng ở hội Âm nhạc; Phan Khôi, Trương Tửu, Trần Ðức Thảo là những nhà tư tưởng của phong trào; Thụy An, Nguyễn Hữu Ðang liên lạc, huy động và khuyến khích anh em; Trần Thiếu Bảo, chủ nhà in Minh Ðức, in các giai phẩm, giúp đỡ tiền bạc và phương tiện để phát hành báo Nhân Văn. Nhà in Minh Ðức còn là trụ sở cuả các cuộc họp báo Nhân văn và Ðất Mới.
Theo lời buộc tội của Nguyễn Ðình Thi thì chủ trương của nhóm NVGP dưạ trên 6 điểm:
Thứ nhất cho chủ nghĩa Cộng sản là "không nhân văn, là chà đạp con người, coi những người cộng sản là những người khổng lồ không tim", Trần Duy. Văn học xã hội chủ nghĩa là "công thức giả tạo đẻ ra những thi sĩ máy", Như Mai. Ðòi quyền tự do cá nhân, tự do sống đời sống tình cảm riêng tư của mõi con người "Ðem buộc công an máy móc đặt giữa tim người, Bắt tình cảm ngược xuôi theo luật đi đường nhà nước", thơ Lê Ðạt.
Ðiểm thứ nhì phản đối chuyên chính, đòi dân chủ tự do trên mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá; đả kích mậu dịch, quản lý hộ khẩu, các bộ máy nhà nước đòi tự do đối lập.
Ðiểm thứ ba chống sùng bái cá nhân, cho sự lãnh đạo của đảng là đảng trị, là độc đoán, mâu thuãn với quyền lợi căn bản của con người. Trong bài Ông Bình Vôi cuả Lê Ðạt có những câu:
Những kiếp người sống lâu trăm tuổi
Y như một cái bình vôi, càng sống càng tồi
Càng sống càng bé lại.
Ðiểm thứ tư đề cao chủ nghĩa quốc gia tư sản, đả kích Liên sô, cho sự giáo dục con người ở Liên sô là rập khuôn, văn học nghệ thuật Liên sô là công chức.
Ðiểm thứ năm chống chính sách cải cách ruộng đất. Ngày 30-10-56 trước Mặt trận Tổ quốc Hà Nội, luật sư Nguyễn Mạnh Tường đọc bài diễn văn quan trọng tựa đề "Qua những sai lâm` trong cải cách ruộng đất, xây dựng quan điểm lãnh đạo". Nguyễn Mạnh Tường phân tích những sai lầm của chế độ đi từ sai lầm cải cách ruộng đất ở thôn quê, sang sai lầm trong chế độ mậu dịch ở thị thành, đến chính sách kinh tế có tính cách bóc lột. Ông truy nguyên nguồn gốc các sai lầm và trình bày những nguyên tắc mới để sửa sang lại guồng máy luật pháp, chính trị, văn học, kinh tế.
Ðiểm thứ sáu và là điểm sau cùng, về văn nghệ NVGP chủ trương phát triển "trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng", chối bỏ sự lãnh đạo của đảng, nêu cao khẩu hiệu trả lại văn nghệ cho văn nghệ sĩ, nhược bằng bắt mọi người viết phải viết theo 1 lối với mình thì rồi đến một ngày kia, "hàng trăm thứ hoa cúc đều phải nở ra cúc vạn thọ hết".
Những thành viên của phong trào NVGP nhiều người đã khuất và thế hệ ngày nay ít ai biết rõ về con người, về cuộc sống cuả họ. Nhưng ký ức văn học may mắn không bị thời gian lôi cuốn đi, nhờ đó mà số phận của các tác giả dù có trải những đoạn trường, văn bản của họ vẫn sống, vẫn được người đời đọc lại và viết lại.
Thụy An, trong vụ án NVGP tên bà được nêu lên hàng đầu với cái tựa "Con phù thủy xảo quyệt" cùng bản cáo trạng nặng nề và độc ác nhất dành cho bà. Thụy An là ai Thụy An tên thật là Lưu thị Yến, trong địa hạt tiểu thuyết, bà là nhà văn phụ nữ đi tiên phong với cuốn "Một linh hồn". Thụy An đã cộng tác với báo Phụ Nữ Tân Văn và là chủ nhiệm các báo Ðàn Bà Mới ở Sài Gòn và Ðàn Bà ở Hà Nội. Là phóng viên chiến tranh, bà đã tham dự nhiều cuộc nhảy dù ra mặt trận để cung cấp tài liệu cho báo chí. Bà Thụy An đã từng giữ chức quyền giám đốc Việt Tấn Xã. Cuối năm 53, Thụy An liên lạc với Hồ Hữu Tường, cổ động cho báo Ðông Phương và Thuyết Trung Lập Chi.
Về cuốn tiểu thuyết Một Linh Hồn của Thụy An, nhà phê bình Vũ Ngọc An nhận định trong tờ Nhà Văn Hiện Ðại như sau: Một Linh Hồn chính là một tiểu thuyết tình cảm, tác giả Thụy An lại vốn là một nhà thơ, Hàn Mạc Tử đã đem vào thi ca VN lòng tin tưởng ở đạo Gia Tô với một giọng say sưa đầm ấm, Thụy An đã xây dựng cho tiểu thuyết của bà, có những nhân vật tin cậy ở Ðấng Cứu Thế, ở Ðức Mẹ Ðồng Trinh và sản lòng nhịn nhục hy sinh. Hãy đọc bà diễn tả những sự tin tưởng êm đẹp cuả người con gái dòng Thức Ðường: "Trên bàn thờ Chuá và những bàn thờ nhỏ chung quanh, vài ngọn nến le lói trong bóng nửa tối nửa sáng. Ánh nến dập dờn làm linh động những pho tượng, những bức tranh. Mặt Ðức Bà như càng lúc càng rầu rĩ thêm và cứ dần dần sát xuống mặt Vân, và 2 bàn tay mềm dẽo của người thường chắp lại nay từ từ rời ra và đang xoa trên cái trán rạo rực nóng bừng của Vân. Vân tưởng hít thấy cái hơi thở thiêng liêng của người và nghe người thì thào như một cơn gió: "Hỡi con, hãy đem nỗi đau khổ gởi vào lòng ta đây". Vân ngã hẳn đầu, tựa vào bức tường mà bấy giờ Vân mơ màng thấy ấm ấm như tựa vào ngực Ðức Bà."
Một câu chuyện bắt đầu giữa nguồn an ủi muôn năm và nỗi đớn đau cực điểm, và Vũ Ngọc Phan kết luận: Một Linh Hồn đáng kể là cuốn tiểu thuyết xuất sắt nhất cuả phụ nữ VN từ trước đến nay, tác giả đã giầu tưởng tượng, truyện lại xây dựng 1 cách vững vàng, chắc chắn.
Thời kỳ NVGP, theo lời khuyên cuả Nguyễn Hữu Ðang, Thụy An không lộ mặt trên báo, tuy vậy tập tài liệu của nhà xuất bản Sự Thật có nói đến 2 bài viết cuả bà tựa đề "Bích Xu Va" và "Trường hợp tòng quân của thiếu úy Lâm". Thụy An thường ra vào hội nhà văn, mạt sát chế độ bần cùng hoá nhân dân và Thụy An liên lạc, nâng đỡ tinh thần, giúp đỡ quần áo, tiền bạc cho văn nghệ sĩ. Thụy An có 1 ảnh hưởng lớn đối với họ. Trong bản tự kiểm thảo, Lê Ðạt viết về Thụy An: Mỗi lần ở nhà Thụy An ra, là mỗi lần tôi thấy mình tài giỏi thêm, oán đảng thêm và chán nản thêm, lòng tin tưởng vào đảng của tôi mất dần khi Thụy An nói đến những con người không đất đứng và tôi cũng tự hỏi đất đứng của mình ở đâu. Không chịu đi chỉnh huấn, Thụy An bị bắt giam vào Hoả Lò Hà Nội .
Người được nêu tên hàng thứ nhì trong vụ án NVGP ngay sau Thụy An là Nguyễn Hữu Ðang với cái tựa "Tên quân sư quạt mo" với lời buộc tội nặng nề và thô thiển. Nguyễn Hữu Ðang quê quán ở Thái Bình, ông tham gia những phong trào ái quốc rất sớm. Trước năm 1942, ông hoạt động trong phong trào truyền bá Quốc ngữ. Năm 1942, ông tham gia Văn hoá cứu quốc, ngay từ 1945, Nguyễn Hữu Ðang đã liên lạc mật thiết với Trần Thiếu Bảo, sau này là chủ nhà xuất bản Minh Ðức.
Trong thời kỳ toàn quốc kháng chiến, Nguyễn Hữu Ðang tổ chức Thanh Niên Xung phong và sau đó làm thanh tra bình dân học vụ. Ðến năm 1947, Nguyễn Hữu Ðang mới chính thức vào đảng. Năm 1951, ông ly khai đảng và từ đó khi ở Cầu gỗ, khi ở Hậu hiền, ông lên tiếng đả kích đường lối của đảng.
Theo lời buộc tội cuả Mạnh Phú Tư thì Nguyễn Hữu Ðang là linh hồn cuả tờ Nhân Văn, ông tìm tiền, kiếm giấy, thu xếp việc ấn loát và viết bài, nhưng lại ký tên người khác, che lấp những nguồn tài chính, những người cung cấp phương tiện bằng hình thức nêu danh những người góp tiền in báo có một nhân lên gấp mười. Trong bản tự kiểm thảo, Trần Dần viết về Nguyễn Hữu Ðang: nếu không có Ðang, không ai có thể tập họp anh em được, sẽ không có tham luận những đề nghị gặp trung ương ra báo mà cũng sẽ không có tờ Nhân Văn. Nguyễn Hữu Ðang chủ trương tranh đấu triệt để và trực tiếp. Nhân lớp học 18 ngày do hội Văn Nghệ tổ chức, ông đọc 1 bản tham luận nẩy lửa nhằm đả kích đường lối văn nghệ lãnh đạo của đảng. Nguyễn Hữu Ðang không chịu đi chỉnh huấn bị bắt giam vào Hoả Lò Hà Nội.
Trần Thiếu Bảo xuất thân trong 1 gia đình giàu có ở Thái Bình. Trần Thiếu Bảo mở hiệu sách Minh Ðức sau trở thành nhà xuất bản, trước ở Thái Bình đến năm 1954 dời về phố Phan Bội Châu, Hà nộị Trần Thiếu Bảo không theo cách mạng ngay từ đầu và ông có tiếng là mạnh thường quân đối với văn nghệ sĩ. Cùng với Nguyễn Hữu Ðang, Trương Tửu, ông tổ chức lễ kỷ niệm Vũ Trọng Phụng khi ấy Vũ Trọng Phụng chưa được vinh thăng như bây giờ. Nhà xuất bản Minh Ðức lợi dụng chuyện khai thác vốn cổ để tái bản những sách cuả Tự Lực Văn Ðoàn như Tiêu Sơn Tráng Sĩ, v.v ... Nhà xuất bản Minh Ðức cũng là trụ sở các cuộc hội họp báo Nhân văn, in giai phẩm Ðất Mới. Trần Thiếu Bảo xuất tiền bạc giúp phương tiện in ấn và phát hành.
Ba giáo sư đại học đã tham gia phong trào NVGP là Trương Tửu, Trần Ðức Thảo và Ðào Duy Anh. Cả ba đều bị cất chức và bị quản thúc gần như suốt đời .
Trương Tửu là nhà phê bình, nhà văn, giáo sư đại học và lý thuyết gia. Trương Tửu bước vào làng văn với loạt bài phê bình những tác phẩm cuả Tự Lực Văn Ðoàn trên báo Loa, Hà Nội năm 1935. Ông còn là tác giả của những tập tiểu thuyết tranh đấu và xã hội. Khi mặt trận dân chủ của Việt Minh bắt đầu phát động, ông đã viết bài đả kích mặt trận trên các báo Quốc gia và Thời thế.
Trương Tửu tuyên bố "Văn nghệ không làm chính trị để giữ sự độc lập cuả trí thức". Cùng với Nguyễn Ðức Tùng ông thành lập nhóm Hàn Thuyên. Nhóm Hàn Thuyên theo chủ trương cộng sản đệ tứ in những sách của Lương đức Thiệp, Thái văn Tam, Nguyễn Tế Mỹ, Lý Hải Âu và các sách của Nguyễn Bách Khoa, tức Trương Tửu như "Nguyễn Du và Truyện Kiều", "Hai bà Trưng". Ngày mùng 10-9-45, Trương Tửu cho xuất bản cuốn Tương Lai Văn Nghệ Việt Nam, trong đó ông nhắc đến cái hôm nay đen tối và chật hẹp, và mượn lời André Gide khuyên các văn nghệ sĩ hãy gieo rắt vào tâm trí mọi người chất men bất phục tòng và phản kháng. Tuy vậy, khi toàn quốc kháng chiến, ông cũng đi theo trào lưu trong 9 năm trời.
Về hoạt động của Trương Tửu trong thời kỳ NVGP, Hoài Thanh tố cáo: "Trong 3 tập giai phẩm liên tiếp, nó tức là Trương Tửu đả kích thậm tệ vào toàn bộ cán bộ đảng phụ trách công tác văn nghệ, phủ nhận tính chất Mác XiÓt, tính chất vô sản của đảng" và Bằng Sĩ Nguyên viết: "Tửu đã nói gì khi giảng dạy ? Tửu đã vu khống đảng là hiện tượng tha hoá, trường đại học có đảng trị, có đảng cụ thể và đảng trừu tượng. Cụ thể bao giờ cũng có sai lầm, vậy mỗi giai đoạn cần có 1 đảng mới. Tửu gây ý thức thoát ly sự lãnh đạo của đảng, cụ thể là tấn công vào cán bộ lãnh đạo của đảng trong bài học. Tửu đề cao quá đáng Vũ Trọng Phụng để nói rằng không có đảng lãnh đạo, nhà văn vẫn viết được những tác phẩm có giá trị và văn nghệ sĩ còn sáng suốt hơn đảng, cố vấn cho đảng phát hiện vấn đề cho đảng biết.
Trần Ðức Thảo nổi tiếng về tài học, đỗ đầu vào trường Normale Superieur ở Pháp năm 1936, thạc sĩ triết học. Trong thời kỳ ở Pháp, ông cộng tác với Jean Paul Sartre tham gia nhóm Les temps modernes. Sau này ông kiện Sartre về 1 cuốn sách viết chung mà Sartre lại không muốn xuất bản.
Những năm 44, 45 ông hoạt động cho hội Việt kiều theo lời buộc tội của Phạm Huy Thông. Khi phái đoàn Việt minh đồng chiếu hộ sang Pháp năm 1946, Trần Ðức Thảo đả kịch phái đoàn, cho chính sách ngoại giao của Việt Minh là đầu hàng và phản bội, và đảng cộng sản Pháp có đầu óc đế quốc thực dân. Trần Ðức Thảo chống lại hiệp ước sâu bọ 6-3-1946. Năm 1949, tại đại hội hòa bình thế giới ở Paris, Trần Ðức Thảo lên tiếng cảnh cáo đại biểu Liên Sô và đại biểu Pháp là phản bội các dân tộc thuộc địa
Năm 1951, Trần Ðức Thảo về nước và năm 56, tham gia phong trào NVGP. Sau khi Nhân văn bị cấm, Trần Ðức Thảo vẫn tiếp tục hoạt động, che chở và giúp đỡ các sinh viên. Ông mở diễn đàn tự do ở đại học để truyền bá tinh thần tự do dân chủ. Hai bài viết quan trọng của ông trong thời kỳ NVGP là bài "Nội Dung Xã Hội và Hình thức tự do" đăng trong giai phẩm muà đông, tập 1, năm 1956 lên án những sai lầm trong cải cách ruộng đất và bài "Nỗ Lực Phát Triển Tự Do Dân Chủ" đăng trên Nhân văn số 3 tháng 10-56 được coi như một đề cương tranh đấu cho tự do dân chủ của nhóm NVGP. Trần Ðức Thảo viết: "Cái tự do mà họ tức là những người lao động trí thức và chân tay muốn phát triển là tự do của toàn dân phê bình lãnh đạo. Cái tự do đó là quyền của người công dân đã được hoàn toàn công nhận và bảo đảm trong chế độ ta. Tự do không phải là cái gì có thể ban ơn.
Người trí thức hoạt động văn hoá cần tự do như khí trời để thở, có tự do thì mới đẩy mạnh được sáng tác văn nghệ, nghiên cứu khoa học, cải tiến kỹ thuật. Phát triển tự do là nhu cầu thiết thân đồng thời là nhiệm vụ số 1 của người trí thức cũng như của toàn dân. Hình thức tự do là tự do cá nhân, cá nhân phục tòng tập thể nhưng tập thể cũng phải có cá nhân xây dựng. Xét đến tình hình thế giới mới đây, lý tưởng tự do cá nhân lại là lý tưởng của những ngày tiến tới, lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản bây giờ đến bắt đầu trở thành 1 thực tế lịch sử ở Liên Sô", ký tên Trần Ðức Thảo.
Học giả Ðào Duy Anh đóng góp tiếng nói cuả mình trong Giai phẩm muà Thu tập 3 năm 1956 với bài "Muốn phát triển học thuật", nội dung phân tích những sai lầm trong nguyên tắc dùng chính trị để lãnh đạo học thuật. Ông viết: "Sự xâm phạm của những cán bộ chính trị vào địa hạt chuyên môn, cố nhiên là rất trở ngại cho công tác chuyên môn, nhất là công tác nghiên cứu khoa học. Cái điều kiện không thể thiếu được để cho học thuật phát triển là tự do tư tưởng, tự do thảo luận. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh 2 hình thức hạn chế tự do tư tưởng tác hại nặng nhất đối với học thuật là bệnh giáo điều và biến chứng của nó là bệnh sùng bái cá nhân. Ở nước ta thì các bệnh giáo điều và sùng bái cá nhân lại còn trầm trọng hơn, khiến người ta vô luận bàn về vấn đề gì cũng đều phải bắt đầu dẫn những đề án của Marx, Angel va Lenin, hoặc những ý kiến của Stalin hay các lãnh tụ khác. Bệnh giáo điều và bệnh sùng bái cá nhân lại dẫn thẳng đến cái tệ tư tưởng độc tôn, hễ thấy ai có ý kiến gì vượt ra ngoài nhưng công thức cũ, những khuôn khổ sản có thì người ta chụp ngay cho những cái mũ dễ sợ như danh hiệu "cải biến chủ nghĩa" chẳng hạn để bịt mồm, bịt miệng người khác.
Tư tưởng không tự do thì không thể tự do thảo luận được, mặc dầu không ai cấm tranh luận, các nhà lãnh đạo vẫn thường nói nên mở rộng tranh luận, nhưng trong thực tế thì sự tranh luận đã bị thủ tiêu từ gốc rồi. Nghiên cứu hay nghị luận 1 vấn đề gì, người người chỉ nơm nớp lo sợ, không khéo thì trật ra ngoài đường lối tư tưởng chính thống độc tôn. Ðối với những người ấy công tác học thuật trở thành trò xiếc leo giây. Con đường học thuật phải là con đường cái thênh thang cho mọi người tự do đi lại chứ không phải là sợi dây căng cho người làm xiếc.
Phải trừ bỏ những bệnh giáo điều và sùng bái cá nhân để trả lại tự do cho học thuật.
Trần Dần là 1 trường hợp đặc biệt quả cảm, bất phục tòng và đã chịu sự trù dập nặng nề nhất. Hăng say theo kháng chiến thời kỳ Ðiện Biên, Trần Dần viết: "người người lớp lớp". Năm 54 yêu 1 người con gái thuộc thành phần tiểu tư sản ở phố Sinh Từ, gia đình đã di cư vào Nam. Bất chấp sự ngăn cấm cuả đảng, Trần Dần vẫn kết hôn với người yêu. Ðầu năm 1955 cùng với Hoàng Cầm, Lê Ðạt, Từ Phát chủ trương việc phê bình tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu và phản đối chính sách cai trị văn nghệ trong quân đội. Trần Dần bị kiểm thảo và bị bắt giam. Giai phẩm muà Xuân ra đời vào tháng 3 năm 1956 in bài Ông Bình Vôi cuả Lê Ðạt, "Cái chổi quét rác rưởi" cuả Phùng Quán và bài thơ Nhất Ðịnh Thắng cuả Trần Dần. Ðây là bài trường ca tha thiết và u uẩn về số phận cuả đất nước và con người, nói lên cái hận chia đôi đất nước:
Trời vẫn quần muôn vàn tảng gió

Bắc Nam ơi đứt ruột chia đôi
Tôi cúi xuống quỳ xin mưa bão
Chớ đổ thêm lên đầu họ, khổ nhiều rồi
Nói đến cảnh đói rét thê thảm cuả quê hương, Trần Dần viết:
Trời mưa to lụt cả gian nhà,
Ôm tất cả che mưa cản gió,
Con chó mực nghe mưa là nó rú,
Tiếng nó lâu nay như khản em ạ.
Và sự hoài nghi cuả con người trước tương lai:
Ôi xưa nay Người vẫn thiếu tin Người
Người vẫn thường kinh hoảng trước tương lai
Giai phẩm muà Xuân bị tịch thu, Trần Dần bị kiểm thảo nặng nề và bị bắt giam vào hoả lò Hà Nội. Trần Dần lấy dao cứa cổ tự vận nhưng không chết. Mấy tháng sau, đảng phát động phong trào sửa sai, Giai phẩm muà Thu và Nhân Văn số 1 ra đời, Phan Khôi viết bài Phê Bình Lãnh Ðạo Văn Nghệ, binh vực Trần Dần. Trong Nhân Văn số 1, ngoài bức chân dung cuả Trần Dần do Nguyễn Sáng vẽ, với vết sẹo ở cổ, còn có bài viết tha thiết của Hoàng Cầm về con người Trần Dần. Ðảng xét lại trường hợp của Trần Dần, Trần Dần được thả và hội Văn nghệ phải viết bài tự kiểm thảo đăng trên các báo. Ðến cuối năm 57, báo Văn in bài Hãy Ði Mãi cuả Trần Dần, tính cách tranh đấu quyết liệt hơn:
Tôi có thể mặc thay ngàn tiếng chữi tục tằn
Trừ tiếng chữi sống không sáng tạo
Trong bài tự kiểm thảo, Trần Dần viết về hoạt động của mình: "những sáng tác cuả tôi đều là cái loại đả kích vào các chính sách của đảng cả. Nếu đọc cả một đống như thế, người ta sẽ cảm thấy sự lãnh đạo của đảng là một sự ngột ngạt không thể nào sống nổi. Người sáng tác phải có quyền và có gan như nhà viết sử thời xưa, vua chém đi 6 người đến người thứ 7 vẫn chép sử đúng như sự thật, vua đành chịu vậy, Riết, bây giơ lỡ nên làm xô đổ thôi tức là đả kích xen ca ngợi thì lãnh đạo cũng phải bằng lòng, tôi hay nói với anh em, vó phải kín mới được trước hở quá rồi, đấu tranh bộ đội, Giai phẩm muà Xuân, Nhân văn đều manh động cả, chỉ có chui vào sáng tác, tức là cái xác chủ dẫn nhất đánh cũng không chết."
Hoàng Cầm sinh năm 1921 tại làng Lạc Thổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Hải Dương. Trước kháng chiến, Hoàng Cầm nổi tiếng trong văn đàn với 3 vở kịch thơ Viễn Khách, Kiều Loan và Lên Ðường. Thời kỳ NVGP, cùng với Trần Dần và Lê Ðạt, Hoàng Cầm là những cột trụ của tờ Nhân văn và Giai Phẩm, những sáng tác của ông trong thời kỳ này được in lại trong tài liệu của hội Báo chí có 2 bài là bài thơ "Em bé lên 6 tuổi" nói về hoàn cảnh đau thương của 1 em bé con địa chủ, bố bị đấu tố, mẹ bỏ đi Nam: "Chị Ðội bỗng lùi lại nhìn đứa bé mồ côi cố tìm vết thù địch, chỉ thấy một con người" và kịch thơ Tiếng Hát Trương Chi mươn hình ảnh tiếng hát để nói về nghệ thuật và khẳng định "không thể cưỡng bức được nghệ thuật". Bài Con Người của Trần Dần được George Boudarein dịch ra tiếng Pháp tập Trăm Hoa Ðua Nở của ông.
Lê Ðạt là người chủ trương đổi mới tư duy văn học, đổi mới thơ ngay từ thời kỳ NVGP. Chủ trương này được Tố Hữu gán cho biệt hiệu "cái thùng sắt Tây Lê Ðạt" và Xuân Diệu viết bài "Những biến hoá cuả chủ nghĩa cá nhân tư sản qua thơ Lê Ðạt". Qua bài tự kiểm thảo, Lê Ðạt xác nhận: "Tôi tham gia Nhân Văn với ý thức là người lãnh đạo lý luận cuả tờ báo vì tôi cho tôi vững vàng hơn Nguyễn Hữu Ðang. Ban biên tập lúc đó gồm có 4 người: Nguyễn Hữu Ðang, Trần Duy, Hoàng Cầm và tôi. Ðể tấn công quan điểm vô sản chuyên chính của đảng, tôi vận động Thanh Châu viết bài Mậu Dịch, tôi góp ý, vẽ tranh 1 người đẽo chân cho vừa giày mậu dịch. Nhân Văn bị đóng cửa nhưng tư tưởng Nhân văn, tư tưởng chống đối vẫn chưa hết. Sau 1 thời gian các báo ngớt đánh, tình hình trở lại bình thường, chúng tôi lại vẫn gặp nhau đả kích đảng, cho là độc đoán". Thơ Lê Ðạt có những lời lẽ rất tiên tri:
Lịch sử muôn đời duyệt lại,
Không ai lừa được cuộc đời.
Khuôn mặt văn học tiêu biểu sau cùng mà chúng tôi gợi lại và tưởng niệm là Phan Khôi. Phan Khôi, bút hiệu Trương Dân, nhà thơ, nhà văn, nhà phê bình, nhà báo, nhà biên khảo là 1 trong những cây bút tiên phong sắc và dạn nhất cuả văn học VN cùng thời với Bùi Kỳ, Trần Trọng Kim, Nguyễn văn Ngọc, Nguyễn văn Tố, Ðào Duy Anh. Phan Khôi sinh năm 1887, tại làng Bảo An, huyện Ðiện Bàn, tỉnh Quảng Nam, mất năm 1959. Phan Khôi là cháu ngoại Hoàng Diệu. Năm 1907, Phan Khôi ra Hà Nội tham gia phong trào Ðông Kinh Nghĩa Thục và viết cho tạp chí Nam Cỗ Tùng Báo. Ít lâu sau, phong trào bị khủng bố, Phan Khôi trở lại Quảng Nam, hoạt động trong phong trào Văn Thân cùng với Huỳnh Thúc Kháng. Bị Pháp bắt, ông học tiếng Pháp trong tù. Năm 1914, ra tù, ông làm nghề viết báo.
Trong nửa thế kỷ từ Bắc chí Nam, ngọn bút sắc bén của Phan Khôi tung hoành trên các báo Nam Phong, rồi Lục Tỉnh Tân Văn, Ðông Pháp Thời báo, Thần Chung, Phụ Nữ Tân văn, Trung Lập, Thực nghiệp Dân báo, Hữu Thanh, Phụ Nữ Thời Ðàm, Tràng An, Sông Hương. Tác phẩm đầu tiên của Phan Khôi là tập Nam Âm thi thoại, ra đời năm 1920 ở Hà Nội. Ðến năm 1936, tái bản tại Huế và đổi tên là Trương Dân Thi Thoại. Bài thơ Tình Già cuả Phan Khôi đăng lần đầu tiên trên báo Phụ Nữ Tân Văn tháng 3 năm 32 được coi như bài thơ mở đường cho phong trào thơ mới. Là nhà Hán học, lý luận khúc chiết và đanh thép theo phương pháp Tây phương, những bài bút chiến cuả Phan Khôi với Hải Triều gây không khí sôi nổi trên văn đàn những năm 30. Khó có người nào xứng đáng hơn Phan Khôi về kiến thức cũng như về tài năng trong vai trò ngự sử văn đàn.
Trong thời kỳ NVGP, ông đứng tên chủ nhiệm kiêm chủ bút tờ Nhân văn để bao che cho các cây bút tre. Trong bài Phê Bình Lãnh Ðạo Văn Nghệ trong Giai Phẩm muà Thu tập 1 với tác phong Ngự sử Văn đàn, ông chỉ trích Trường Chinh ăn nói bưà bãi, chất vấn gắt gao Tố Hữu, Hoài Thanh, Nguyễn Ðình Thi. Những người chủ chốt trong việc kết tội Trần Dần. Sau khi tách bạch 2 giai cấp Lãnh đạo văn nghệ và Quần chúng văn nghệ, Phan Khôi nhắm 3 tiêu đề:
Thứ nhất vấn đề tự do của văn nghệ sĩ, sau những dẫn chứng những trường hợp cụ thể về việc lãnh đạo nghiệt ngã bắt bẻ người viết phải theo đúng đường lối, Phan Khôi hỏi lãnh đạo: chính trị muốn đạt đến cái mục đích của nó thì cứ dùng khẩu hiệu, biểu ngữ thông tri chỉ thị không được hay sao mà phải cần dùng đến văn nghệ rồi ông cảnh cáo: "Lãnh đạo đã xâm phạm mỗi ngày một hơn vào quyền riêng nghệ thuật của văn nghệ sĩ.
Ðiểm thứ hai, về vụ Giai phẩm muà Xuân, Phan Khôi chất vấn ban chủ toạ hội Văn nghệ: "hỏi độc tội một Trần Dần thôi là cái ngón chính trị tài tình lắm đấy, để cô lập Trần Dần và phân hóa những người trong Giai Phẩm, cái ngón ấy đã thành công. Tôi còn nhớ có vị bắt lỗi trong bài thơ Trần Dần có chữ Người viết hoa, lấy lẽ rằng chữ Người viết hoa chỉ để xưng Hồ chủ tịch, thế mà Trần Dần lại viết hoa chữ Người không phải để xưng Hồ chủ tịch. Tôi ngồi nghe mà tưởng như ở trong chiêm bao, chiêm bao thấy mình đứng ở 1 sân rộng nọ, ông Lê Ngỗ tố cáo ông Nguyễn Mỗ trước ngai vàng: trong phép viết chỉ có chữ nào thuộc về Hoàng thượng mới phải đai, thế mà tên Nguyễn Mỗ viết thư cho bạn dám xài những chữ không phải thuộc về Hoàng thượng. Nhân may cho tôi, tôi tỉnh ngay ra là mình đang ngồi trong phòng họp hội Văn nghệ"
Về vụ giải thưởng văn học năm 1954, 55, ba tác phẩm Mưa Sao của Xuân Diệu, Truyện Anh Lộc của Nguyễn Huy Tưởng và Nam bộ Mến Yêu của Hoài Thanh đều chiếm giải. Phan Khôi phê rằng đảng giáo dục Xuân Diệu làm cách mạng chứ có giáo dục Xuân Diệu làm thơ đâu, và 3 ông Xuân Diệu, Nguyễn Huy Tưởng, Hoài Thanh đều có tác phẩm dự thi mà đều ở trong ban trung khảo. Nếu ở trong ban trung khảo mà thôi còn khá, thử điều tra lại hồ sơ, thì 3 ông còn ở trong ban sơ khảo nữa, sao lại có thể như thể Trường thi phong kiến xưa, tuy có ám muội gì bên trong, chứ bên ngoài họ vẫn sạch tiếng. Một người nào có con em đi thi thì người ấy có được cắt cử cũng phải hồi tị, không được chấm trường. Bây giờ, đến cả chính mình đi thi mà cũng không hồi tị, một lẽ là ở thời đại Hồ Chí Minh, con người đã đổi mới, đã liêm chính cả rồi, một lẽ là trắng trợn vì thấy mọi cái miệng đã bị vú lấp.
Chuyện Ông bình Vôi cuả Phan Khôi đăng trong Giai phẩm muà Thu tập 1 ngẫu hứng từ bài thơ Ông Bình Vôi của Lê Ðạt. Phan Khôi viết để bênh vực Lê Ðạt, đồng thời nhạo báng lãnh tụ, gọi lãnh tụ là Ông Cọp, Ông Trưởng, Ông Ðầu Rau, Ông Tre và Ông Bình Vôi và chế giễu 3 bài vị mà người dân thường phải để chân dung trong nhà. Trong bài Ông Năm Chuột, Phan Khôi gián tiếp đòi hỏi trả văn nghệ cho văn nghệ, chuyên môn cho chuyên môn, ông nhắn lãnh đạo qua lời cuả người thợ bạc rằng: "người ta cái gì biết ít thì chỉ nên nghe chứ không nên nói, tôi không nói chuyện văn chương chữ nghĩa với ông, cũng như ông không dậy nghề làm thợ bạc cho tôi"
Theo bài viết của Ðoàn Giỏi, đăng trên báo Văn nghệ số 15-8-58 thì tháng 12 năm 1957, Phan Khôi đưa đến nhà xuất bản hội Nhà văn 1 tập bản thảo dầy, bên ngoài đề 2 chữ Nắng chiều gồm nhiều bài bút ký, tạp văn, viết từ đầu kháng chiến Việt Bắc đến 1957. Ðoàn Giỏi trích đoạn những bài viết cuả Phan Khôi cố ý đả phá, đồng thời cho độc giả biết những nét đại cương của tác phẩm. Ngay trong 2 bài đầu tưạ đề Cầm Vịt và Tiếng Chim, Phan Khôi đã khẳng định: "xã hội không có đấu tranh giai cấp, của ai người nấy ăn. Vấn đề tranh đấu giai cấp chỉ là kiểu rình phần cuả kẻ khác. Về bài viết Cây Cộng Sản, Ðoàn Giỏi tự hỏi, tại sao Phan Khôi lại đem cây cứt lợn cũng gọi là cây chó đẻ và bọ xít toàn những tên không nhã tí nào hết để gọi nó là cây Cộng sản và cỏ cụ Hồ. Ðến bài giới thiệu Nguyễn Trường Tộ, Phan Khôi viết: "Vua thì như thế, còn đám quan liêu từ triều đình đến các tỉnh phần nhiều là hủ nho, đám sĩ phu ở dân gian càng đông hơn, cũng đều là hủ nho, dưới vua, hai hạng người này nắm quyền lợi một nước trong tay họ, họ cấu kết với nhau để giữ lấy quyền lợi thì còn ai mà làm gì được. Ðoàn Giỏi bị kiểm thảo về tội "vờ đả kích Phan Khôi để công bố những nét đại cương cuả 1 tác phẩm bị cấm. Bản thảo tập Nắng chiều hiện nay ở đâu, còn hay mất, đó là công việc của những nhà sưu tầm và nghiên cứu văn bản học, trách nhiệm trước hết với Phan Khôi và sau nữa với văn học VN.
oOo
Phong trào NVGP là một cuộc tranh đấu lớn lao cuả trí thức và văn nghệ sĩ nhằm mục đích dân chủ hoá và canh tân đất nước về mọi mặt chính trị, kinh tế, pháp luật, xã hội, văn hoá và tư tưởng. Chính quyền miền Bắc đã dập tắt phong trào, chính quyền miền Nam đã lợi dụng phong trào để làm vũ khí tuyên truyền chống cộng, và đất nước đã rơi vào hoàn cảnh xáo trộn, chiến tranh, lạc hậu và chuyên chính trong gần nửa thế kỷ qua. Trở lại hồ sơ NVGP, tìm lại những văn bản đã bị tịch thu, đã bị thất lạc là trách nhiệm cuả người làm văn học nghệ thuật. Trách nhiệm đối với dĩ vãng và để rút tỉa bài học cho hiện tại và tương lai.

http://members.fortunecity.de/thongtinberlin1/diendan/nhanvangiaipham.html

Aucun commentaire: